tội vi phạm chế độ một vợ một chồng
Về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS) 3. 1. Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một
NGOẠI TÌNH là hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng, về mặt đạo đức xã hội, không được sự đồng tình. Nhưng nếu người trong cuộc không có hướng xử lý đứng đắn thì họ rất dễ làm trái pháp luật, bị pháp luật chế tài về hành chính lẫn trách
Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau: "1.Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; Đã có
Trước hết hành vi của chồng bạn đúng là có dấu hiệu cấu thành Tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng theo quy định tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017): "Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. 1.
Ist Flirten In Einer Beziehung Ok. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả... >>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài 24/7 gọi 1900 61981. Cơ sở pháp lý- Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau "1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. 2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".2. Các dấu hiệu của tội phạma Chủ thể- Những người từ đủ 16 tuổi trở Khách thể- Đối tượng của tội phạm là chế độ một vợ, một chồng - một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mà Luật hôn nhân và gia đình quy Mặt khách quan của tội phạm phải đảm bảo cả hai yếu tố hành vi và có hậu quả xảy ra- Hành vi+ Đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.+ Kết hôn với người khác trái pháp luật hành vi lừa dối các cơ quan nhà nước để đăng ký kết hôn hoặc tổ chức đám cưới theo phong tục, tập quán có vợ, có chồng nhưng lại nói dối là mình chưa có, hoặc đã li hôn, hoặc vợ hoặc chồng mình đã chết…+ Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có nhiên, nếu hậu quả gây ra chưa nghiêm trọng và những người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà vẫn còn vi phạm thì mới cấu thành tội Hậu quả phải gây ra hậu quả nghiêm trọng như+ Người vợ, người chồng hợp pháp phải bỏ việc, phải tốn kém tiền của để lo giải quyết hàn gắn quan hệ vợ chồng.+ Người vợ, người chồng hợp pháp do quá uất ức mà sinh ra bệnh tật, tự sát, con cái không nơi nương tựa.+ Phạm tội khác như giết người, cố ý gây thương tích từ 21% trở lên, gây rối trật tự công cộng, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 50 triệu đồng trở lên.d Mặt chủ quan của tội phạm- Phải do lỗi cố ý gây ra- Mục đích mong muốn sống như vợ chồng trái pháp luật mặc dù đã biết rõ hành vi của mình là sai vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụĐịa chỉ Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà NộiVăn phòng giao dịch Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà NộiĐiện thoại 04 - Tổng đài tư vấn pháp luật 1900-6218E-mail[email protected], hoặc E-mail [email protected]
Khái niệm Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Bộ luật hình sựBình luận về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Bộ luật hình sựKhái niệm Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Bộ luật hình sựTội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự như sauĐiều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năma Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;b Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năma Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;b Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, vi phạm chế độ một vợ, một chồng được hiểu là trường hợp nam, nữ đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc tuy chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với ngươi mà mình biết rõ là đang có chồng, có luận về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Bộ luật hình sựThứ nhất Các yếu tố cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng– Mặt khách quanMặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau đây+ Về hành vi, có một trong các hành vi sauCó hành vi kết hôn trái pháp luật với người khác trong khi người phạm tội đang có vợ hoặc có chồng một cách hợp pháp hoặc được xác định là hôn nhân thực tế và quan hệ hôn nhân đó còn đang tồn tại hoặc tuy chưa có vợ, có chồng mà kết hôn trái pháp luật với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ hợp kết hôn trái pháp luật thể hiện qua việc dùng thủ đoạn khai báo gian dối và chưa có vợ hoặc chồng, hoặc mua chuộc cán bộ có thẩm quyển để tiến hành việc kết hôn nhằm xác lập quan hệ hôn nhân mới giữa nam, nữ trong khi chính họ đang có vợ hoặc vi sống như vợ chồng với người khác nếu không thuộc trường hợp kết hôn nêu ở trên thì hành vi chung sống như vợ chồng với người khác cũng cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Hành vi nêu trên được thể hiện ở chỗ đôi nam, nữ mà một hoặc cả hai bên đang có vợ hoặc chồng nhưng lại chung sống với nhau không đăng ký kết hôn và coi nhau như vợ chồng một cách công khai như ở chung một nhà, công khai mối quan hệ vợ chồng với hàng xóm, cha mẹ, bạn bè, có tài sản chung, con chung.Tuy nhiên, thực tế việc xác định dấu hiệu nàv không dễ dàng vì phần đông việc chung sống ở dạng này thường diễn ra một cách lén lút, bí mật, trừ một số trường hợp khá đặc biệt có sự đồng ý của vợ hoặc chồng cho lấy thêm vợ hoặc chồng ý+ Hôn nhân thực tế được hiểu là trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký trước chính quyền, không vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình và quan hệ này phải xác lập trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực.+ Trường hợp người có chồng, có vợ hợp pháp nhưng đang ly thân mà kết hôn hoặc chung sống với người khác như vợ chồng thì vẫn bị coi là phạm vào tội này. + Nếu hậu quả nghiêm trọng xảy ra mà cấu thành một tội phạm khác thì người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập dụ A đi công tác xa đã chung sống với chị B như vợ chồng, nên đã tìm cách giết vợ để được chung sống với B một cách trọn vẹn. Hành vi của A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội là tội vi phạm chế độ một vợ một chồng và tội giết người.+ Nếu người đang có vợ có chồng hợp pháp mà sống như vợ như chồng với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cấu với trẻ em.+ Nếu sống chung như vợ chồng với trẻ em chưa đủ 13 tuổi thì họ phạm vào tội hiếp dâm trẻ em. + Dấu hiệu khác Hành vi nói trên phải gây hậu quả nghiêm trọng như làm cho gia đình họ đổ vỡ phải ly hôn… hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.– Khách thểHành vi phạm tội nêu trên xâm phạm đến chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, một trong những nguyên tắc cơ bản quy định Luật Hôn nhân và gia đình 2014. – Mặt chủ quanNgười phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý trực tiếp.– Chủ thểChủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, phải dù tuổi kết hôn nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên và phải là đang có vợ hoặc có chồng hợp pháp hoặc là người chưa có vợ, chưa có chồng nhưng biết rõ người khác đang có chồng có vợ, mà vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người với người còn lại mà chưa có vợ hoặc có chồng khi biết rõ bên kia đã có chồng hoặc có vợ mà vẫn đồng ý kết hôn với họ thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này với vai trò đồng tế có trường hợp đồng tính luyến ái chung sống với nhau như vợ chồng theo chúng tôi thì không thể coi là hành vi vi phạm chế độ một vợ một hai Khung hình phạt tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngMức hình phạt của tội phạm này được chia thành hai khung cụ thể như sau– Khung một khoản 1Có mức hình phạt là phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ các dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.– Khung hai khoản 2Có mức hình phạt là phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu vi phạm một trong các điều sau+ Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;+ Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng là hành vi của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc gây hậu quả... Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định cụ thể tại điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 sau đây gọi là "Bộ luật Hình sự". Theo đó, người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm, hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm tùy theo mức độ, hậu quả gây cứ pháp lý của tội vi phạm chế độ một vợ một chồngBộ luật Hình sự năm quy định về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng như sau"1- Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm a Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; b Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; b Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó" Điều 182.Các yếu tố cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngi Chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngCũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng cũng phải đảm bảo các yếu tố điều kiện cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định trong Bộ luật hình sự. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng tuy phải là chủ thể đặc biệt nhưng có một đặc điểm khác với chủ thể của các tội phạm khác ở chỗ người phạm tội hoặc người phạm tội cùng phải là người đang có vợ hoặc có chồng.ii Mặt khách quan của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng- Người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có thể có một trong các hành vi sau i Đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; ii Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn kể cả hôn nhân thực tế được pháp luật thừa nhận và chưa chấm dứt quan hệ hôn đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết nhân thực tế là hôn nhân là hôn nhân có đủ điều kiện kết hôn về nội dung, chỉ vi phạm điều kiện về hình thức là không có đăng ký kết hôn. các điều kiện về nội dung là Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; việc chung sống với nhau được gia đình một hoặc cả hai bên chấp nhận; việc chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia vi sống chung như vợ chồng với người khác là hành vi của nam và nữ không có đăng ký kết hôn nhưng về sống chung với nhau như vợ chồng, có thể có tổ chức lễ cưới hoặc không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán; gia đình có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; họ sống với nhau như vợ chồng một cách công khai, mọi người xung quanh đều biết và cho rằng họ là vợ chồng. Sẽ không phải là sống chung với nhau như vợ chồng nếu như nam và nữ lén lút quan hệ tình dục với nhau theo quan niệm mà xã hội cho là “ngoại tình”.Kết hôn với người khác trái pháp luật là hành vi lừa dối các cơ quan Nhà nước để đăng ký kết hôn hoặc tổ chức đám cưới theo phong tục, tập quán; người phạm tội có thể lừa dối đối với người mà mình kết hôn như nói dối là mình chưa có vợ, chưa có chồng hoặc tuy đã có vợ hoặc có chồng nhưng đã ly hôn hoặc đã chết làm cho người mà mình định kết hôn tin mà đồng ý kết hôn. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp cả hai người nam và nữ đều biết nhau đã có vợ hoặc có chồng nhưng vẫn cố tình lừa dối các cơ quan Nhà nước để được kết hôn trái pháp có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ là trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng biết rõ người khác đã có chồng, đã có vợ nhưng vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này. Khi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đã có chồng hoặc có vợ, người phạm tội phải biết rõ người mà mình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng là người đang có chồng hoặc có vợ. Nếu không biết rõ thì không phải hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Thông thường, trường hợp này người chưa có vợ, chưa có chồng nhất là người chưa có chồng bị người đang có vợ hoặc đang có chồng lừa dối nên mới kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người Hậu quả và mối quan hệ nhân quảHậu quả của tội phạm này là hậu quả nghiêm trọng, nếu hậu quả gây ra chưa nghiêm trọng mà người phạm tội cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì cũng chưa cấu thành tội phạm này.iii Mặt chủ quan của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngNgười phạm tội thực hiện hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng là do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ việc kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng, thấy trước được hậu quả nghiêm trọng nhất định xảy ra hoặc có thể xảy ra, mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng người phạm tội thường bỏ mặc cho hậu quả nghiêm trọng xảy ra, miễn là được chung sống như vợ chồng với nhau.iv Khách thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngKhách thể của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng chính là chế độ một vợ, một chồng, là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mà Luật hôn nhân và gia đình quy định; bảo vệ chế độ một vợ, một chồng khỏi bị xâm hại cũng chính là giữ vững nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia phạt của người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồngi Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm khi người phạm tội đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn.ii Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ sao các tổ chức, cá nhân nên sử dụng dịch vụ pháp lý trong trường hợp có liên quan tới tội phạm vi phạm chế độ một vợ, một chồngOan, sai, tình trạng bức cung, nhục hình trong vụ án hình sự tại Việt Nam hiện nay không còn hiếm. Tình trạng này không chỉ trực tiếp xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm... mà trong nhiều trường hợp, còn tước đoạt cả quyền được sống của con người;Ngược lại, Việt Nam không hiếm trường hợp lại diễn ra tình trạng "hành chính hóa" hoặc "dân sự hóa" hành vi vi phạm pháp luật hình sự tội phạm. Tố giác, tố cáo, tin báo tội phạm của tổ chức, doanh nghiệp, công dân không được giải quyết đúng pháp luật, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, không truy tố hoặc truy tố không đúng hành vi phạm tội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, các đương sự;Sự tham gia của luật sư trong lĩnh vực hình sự đặc biệt là với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác tố cáo, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên. Hoạt động bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không chỉ là hoạt động nghề nghiệp mà còn là trách nhiệm xã hội của người luật sư trong việc duy trì công viết thực hiện bởi Luật sư Nguyễn Thị Yến - Trưởng Chi nhánh Quảng Ninh của Công ty Luật TNHH EverestGiới thiệu về Công ty Luật TNHH EverestDịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH EverestHoạt động vì cộng đồng của Công ty Luật TNHH EverestKhuyến nghị của Công ty Luật TNHH EverestBài viết trong lĩnh vực hình sự nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật1900 6198, E-mail [email protected].
LSVN - Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" tại Điều 147. Qua thực tiễn áp dụng đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập khi áp dụng. Sau khi sửa đổi, bổ sung ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015, những vướng mắc, bất cập tồn tại cơ bản được khắc phục và bổ sung nhiều quy định mới cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc cụ thể, tác giả thấy rằng còn tồn tại một số nội dung cần tiếp tục được hoàn thiện theo quy định. Ảnh minh họa. Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" như sau Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm a Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; b Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; b Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn áp dụng, các thuật ngữ “kết hôn” “người đang có vợ hoặc chồng” hoặc “người chưa có vợ hoặc chồng” được hiểu như sau Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn [1]. Người đang có vợ hoặc có chồng mà có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác Đang có vợ hoặc có chồng được hiểu là người đã kết hôn có đăng ký kết hôn hoặc hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng một quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án về công nhận thuận tình ly hôn, xử cho ly hôn hay tiêu hôn vì vi phạm điều kiện kết hôn do luật định hoặc một bên chết, mất tích đã bị Toà án tuyên bố mất tích… [2]. Người chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn [3]. Chính vì vậy, người chưa có vợ, có chồng là người chưa từng kết hôn hoặc đã kết hôn nhưng đã chấm dứt hôn nhân. Chỉ khi người chưa có vợ, có chồng biết được người mình chung sống là người đang có vợ, có chồng thì mới được xem là hành vi khách quan của tội phạm này. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng [4]. Tại thông tư Liên tịch Số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định [5] "Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó". Đối với các yếu tố cấu thành tội phạm này đã thể hiện rõ trong điều luật nên tác giả không phân tích thêm. Về mặt khách quan, tội phạm được xem là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi trên làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. Nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng Thứ nhất, về khung hình phạt được áp dụng Theo quy định tại khoản 2 Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015, phạm tội thuộc một trong các trường hợp 1 Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; 2 Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Tình tiết định khung hình phạt tại điểm a khoản 2 Điều 182 “làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát” là một bổ sung mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng, quy định của pháp luật đã cụ thể, rõ ràng, trong quá trình áp dụng không có vướng mắc. Tuy nhiên, đối với tình tiết định khung hình phạt “làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát”, điều luật quy định hình phạt cao nhất là 03 năm tù là còn nhẹ, chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm, hậu quả của tội phạm. Xuất phát từ nguyên tắc “tính mạng, sức khỏe con người là bất khả xâm phạm” đã được quy định trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự và một số văn bản luật khác, hành vi này cần được xử lý nghiêm khắc hơn. Hơn nữa, đối với loại tội phạm này, đặt giả thiết trong một vụ việc cụ thể, nếu người chồng có hành vi phạm tội chế độ một vợ, một chồng theo quy định Điều 182 Bộ luật Hình sự dẫn đến người vợ tự sát, hậu quả để lại là những đứa con còn nhỏ không có người mẹ chăm sóc, giáo dục, gia đình có bố mẹ già mất đi trụ cột lao động chính, nuôi dưỡng... Hoặc cũng với ví dụ trên nếu dẫn đến đứa con mới chỉ 13, 14 tuổi tự sát thì có thể nhận thấy hậu quả nghiêm trọng của hành vi phạm tội gây ra. Chính vì vậy, đối với tình tiết phạm tội như trình bày ở trên, theo quan điểm của tác giả, trong thời gian tới cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung theo hai phương án hoặc có thể tăng hình phạt ở mức cao hơn 03 năm tù hoặc điều luật có thể quy định thêm hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhằm bảo đảm răn đe, phòng ngừa tội phạm. Một trong những nguyên tắc áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội, bảo đảm tốt nhất quyền lợi của người phạm tội đó là hạn chế thấp nhất áp dụng hình phạt tù, khuyến khích áp dụng các hình phạt khác nhằm giúp đỡ người phạm tội sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội, chính vì vậy, trong giả thiết tác giả nêu trên điều luật có thể quy định hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Thứ hai, khó khăn khi xác định hành vi “chung sống như vợ chồng”. Hành vi khách quan của tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" là hành vi của người đang có vợ, có chồng hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ. Tuy nhiên, việc hiểu và áp dụng quy định “chung sống như vợ chồng” làm căn cứ đển truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số vụ án cụ thể trong thời gian qua đã có những cách hiểu và quan điểm khác nhau. Hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình. Vì vậy, khi áp dụng tinh thần Thông tư Liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” trong Bộ luật Hình sự năm 1999, việc chung sống như vợ chồng được quy định “chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…”[6]. Với quy định trên có hai cách hiểu như sau Quan điểm thứ nhất cho rằng Xác định hành vi “sống chung như vợ chồng” phải chứng minh đầy đủ ba yếu tố như Thông tư Liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC đã quy định bao gồm Thứ nhất, có con chung; Thứ hai, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng; Thứ ba, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó. Nếu thiếu một trong ba dấu hiệu như đã nêu thì dù họ có sống chung gây ra hậu quả nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 182 Bộ luật Hình sự cũng không cấu thành tội phạm. Quan điểm thứ hai xác định hành vi “sống chung như vợ chồng” để truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ cần chứng minh và thỏa mãn một trong các yếu tố hoặc có con chung hoặc được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng hoặc có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó. Qua nghiên cứu, tác giả cho rằng, các điều kiện về kết hôn, ly hôn, bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình đã được quy định cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn áp dụng. Hành vi của một người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ thuộc một trong các hành vi bị cấm theo pháp luật về hôn nhân gia đình [7]. Bên cạnh đó, khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có quy định “chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”. Vì vậy, thỏa mãn quy định chung sống như vợ chồng làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ cần là quan hệ cùng chung sống giữa người nam và người nữ như các cặp vợ chồng bình thường, điểm khác biệt duy nhất là quan hệ giữa họ mang tính bất hợp pháp, không có đăng ký kết hôn và cả người nam, nữ đều biết rõ tình trạng hôn nhân của nhau, đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó… Quan hệ chung sống bất hợp pháp giữa người nam và người nữ nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 182 sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định. Từ phân tích trên cho thấy, Thông tư Liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” trong Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ cần bỏ quy định “Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung ” và giữ nguyên quy định “Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó” sẽ bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Qua đó, giải quyết, khắc phục được vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng như tác giả trích dẫn ở trên. Tuy nhiên, để có cơ sở áp dụng pháp luật, trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể hơn về hành vi “chung sống như vợ chồng” làm căn cứ pháp lý xác định có hành vi phạm tội hay không phạm tội? Bởi vì, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định “chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”, đối với quy định như thế nào là “chung sống như vợ chồng” đã cụ thể, rõ ràng, vấn đề đặt ra trong thực tiễn đó là hiểu và xác định như thế nào về quy định “coi nhau như vợ chồng”. Thực tế có rất nhiều trường hợp họ công khai chung sống bất hợp pháp nhưng họ không coi nhau như vợ chồng, dù hành vi của họ gây ra có nghiêm trọng cũng sẽ không phạm tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" theo quy định, thực trạng này dẫn đến nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, quy định của pháp luật không được áp dụng thống nhất. ================== [1] Khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. [2] Khoản 4 Điều 2 Thông tư 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. [3] Khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. [4] Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. [5] Thông tư Liên tịch này đã hết hiệu lực thi hành, hiện nay Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có văn bản mới hướng dẫn áp dụng nên có thể áp dụng tinh thần TTLT số 01/2001. [6] “Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng dưới khía cạnh xã hội – Pháp lý và những vấn đề đặt ra”, Nguyễn Thị Lan, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Luật học, Tập 31, Số 1 2015. trang web [7] Điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. PHÙNG VĂN HOÀNG Tòa án quân sự Quân khu 1 Đề xuất bổ sung hình thức cung cấp sản phẩm đo đạc, bản đồ dạng trực tuyến
Cập nhật lúc 1453, Thứ hai, 04/03/2019 GMT+7 Vừa qua trên một số báo có bài viết về một người đàn ông có 2 giấy đăng ký kết hôn. Trên thực tế tình trạng chung sống như vợ chồng không phải là hiếm. Tôi muốn hỏi các hành vi như thế nào là vi phạm chế độ một vợ một chồng? Vi phạm chế độ một vợ một chồng có phạm tội? Kỳ lạ một người đàn ông được phường “cho” lấy 2 vợ Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng là hành vi của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc gây hậu quả... Người phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng có thể có một trong các hành vi sau + Đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. + Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn kể cả hôn nhân thực tế được pháp luật thừa nhận và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân. Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Hôn nhân thực tế là hôn nhân là hôn nhân có đủ điều kiện kết hôn về nội dung, chỉ vi phạm điều kiện về hình thức là không có đăng ký kết hôn. các điều kiện về nội dung là Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; việc chung sống với nhau được gia đình một hoặc cả hai bên chấp nhận; việc chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Hành vi sống chung như vợ chồng với người khác là hành vi của nam và nữ không có đăng ký kết hôn nhưng về sống chung với nhau như vợ chồng, có thể có tổ chức lễ cưới hoặc không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán; gia đình có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; họ sống với nhau như vợ chồng một cách công khai, mọi người xung quanh đều biết và cho rằng họ là vợ chồng. Sẽ không phải là sống chung với nhau như vợ chồng nếu như nam và nữ lén lút quan hệ tình dục với nhau theo quan niệm mà xã hội cho là “ngoại tình”. + Kết hôn với người khác trái pháp luật là hành vi lừa dối các cơ quan Nhà nước để đăng ký kết hôn hoặc tổ chức đám cưới theo phong tục, tập quán; người phạm tội có thể lừa dối đối với người mà mình kết hôn như nói dối là mình chưa có vợ, chưa có chồng hoặc tuy đã có vợ hoặc có chồng nhưng đã ly hôn hoặc đã chết làm cho người mà mình định kết hôn tin mà đồng ý kết hôn. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp cả hai người nam và nữ đều biết nhau đã có vợ hoặc có chồng nhưng vẫn cố tình lừa dối các cơ quan Nhà nước để được kết hôn trái pháp luật. + Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ là trường hợp người chưa có vợ, chưa có chồng biết rõ người khác đã có chồng, đã có vợ nhưng vẫn kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này. Khi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đã có chồng hoặc có vợ, người phạm tội phải biết rõ người mà mình kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng là người đang có chồng hoặc có vợ. Nếu không biết rõ thì không phải hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Thông thường, trường hợp này người chưa có vợ, chưa có chồng nhất là người chưa có chồng bị người đang có vợ hoặc đang có chồng lừa dối nên mới kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người này. Hậu quả của tội phạm này là hậu quả nghiêm trọng, nếu hậu quả gây ra chưa nghiêm trọng mà người phạm tội cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì cũng chưa cấu thành tội phạm này. Hậu quả ở đây được liệt kê trong điều 182 BLHS 2015 như sau Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn, Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. Tội “vi phạm chế độ một vợ, một chồng” được quy định tại điều 182 BLHS 2015 như sau "Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm a Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; b Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; b Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó". Luật sư Nguyễn Văn Lâm Đoàn Luật sư Hà Nội
tội vi phạm chế độ một vợ một chồng